|
|
Patch panel,
Nói chung đó là một thanh gồm nhiều đầu zắc (tên tiếng anh là : snap in) để gắn đầu RJ45 (thường một thanh có 24 hoặc 48 ports). Có hai loại: hoặc có sẳn ports hoặc empty (rỗng), đối với empty thì bạn phải gắn thêm snap-in (có khi người ta gọi là đầu cái của RJ45)
Sử dụng patch panel:
1. Thường được gắn vào tủ rack (đặt các thiết bị active equipments (switches, core,...
2. Đường cáp (cable) permanent sẽ nối với patch panel (phải có tool để gắn day cáp vào dằng sau patch panel, hoặc gắn vào snap-in rùi gắn snap-in vào patch panel), sau đó người ta sẽ sử dụng sợi dây gọi là dây patch cord (mình cũng không bít phải dịch như thế nào) để nối từ patch panel đến switches (hay core switch - bây giờ thường người ta sử dụng switch layer3 lun, khỏi phải xài router)
Lý do:
- Theo tiêu chuẩn quốc tế thì ko ai lại sử dụng dây cáp (thường cá cáp cat5e) để bấm đầu rj45 vô như Việt Nam rùi cắm thẳng vô switches vì thường đầu rj45 ko thể bấm chuẩn được. Hơn nữa nếu bấm cáp cat 6 thì gãy kìm lun.
- Theo thời gian đầu rj45 sẽ bị oxy hoá, các signals tới đầu sẽ bị dội tín hiệu và switches tối ngày phải nhận và xử lý những tín hiệu lỗi này - hậu quả hệ thống mạng càng chậm.
- Khi gắn patch panel các thao tác connect tới switches sẽ rất thuận tiện, đồng thời hỗ trợ được cho các thiết bị testers kiểm tra, marping network system. Đồng thời sử dụng sợi patch cord (là sợi cáp được đúc sẳn 2 đầu rj45 tại nhà máy sản xuất cáp, sẽ làm tối ưu hoá đường truyền và đầu rj45 được tráng một lớp bảo vệ sự oxy hoá. Một đầu sẽ cắm vào patch panel, một đầu cắm vào switch.
Trang này ko co upload hinh len được, tiếc wá, minh có rất nhiều tài liệu về các thiết bị mạng, bạn nào muốn tìm hiểu thì cứ liên lạc với mình wa mail nhé : tuanrnet@yahoo.com
|
|
|
Nếu bạn muốn mở phòng game, thì liên lạc với mình 15 máy mà 70 chai thi ok rùi (tuy nhiên theo kinh nghiệm của mình thi khoản 20 máy trở lên mới hy vọng có lời), mình sẽ lên cấu hình và báo giá lun cho, đương nhiện là iá rẽ, vì hồi trước mình làm ben venr phân phối linh kiện máy tính cho Nguyễn Hoàng, Phong vũ,... nhiếu dealers lam. liên lạc wa mail nhé tuanrnet@yahoo.com.
thân mến.
(còn giờ mình chuyên bên network, tuy nhien vẫn có liên hệ mật thiết với bên vi tính)
|
|
|
Dùng chương trình dò Nếu bạn phát hiện ra file keyloger pk.bin; inst.dat và có thể có một số file khác, nói chung file tìm ra locate của nó. Perfect Keylogger(PK) ngoài các tính năng như các keylogger khác, nó sẽ gởi log thông qua FTP, capture màn hình sau một khoảng thời gian nhất định, capture Clipboard, chọn mục tiêu theo dõi, tích hợp luôn chức năng SFX….
Bạn cứ mạnh dạn chạy con PK lun (đừng sợ). Nhưng trước đó phải bật một số ct có thể kiểm soát: TCPView, ProcessExplorer. Có thể bạn nghe virus thì sợ, nhưng một khi có các tools, kết hợp với kinh nghiệm, và khả năng suy luận một tí thui thì cứ bình tĩnh mà chơi nó.
Một lúc sau bạn sẽ được TCPView báo PK đang tạo kết nối với một SMTP server để gởi mail đi. Để biết PK đã gởi gì cho nó, dùng Sniffer để theo dõi những packet PK đã gởi đi (hay một ct capture packets nào đó). Để nhanh, bạn del nó, rùi chạy lại cho nhanh, vài phút sau khi chạy lại, nó bắt đầu gởi packet .
Dump mấy cái packet lại thì được cái mail mà PK đã gởi đi. Nơi đến dĩ nhiên là email của thằng cài keylog. Nói chung có thể dùng Sniffer để biết được ai cài pk. Muốn biết mọi cài đặt của PK lưu trong pk.bin (?), kể cả thông tin đăng ký. Đây là một file bin, mọi thao tác chỉ có thể thực hiện bằng chương trình chỉnh sửa file nhị phân thích hợp, có thể dùng Hex Workshop để làm việc này. Để tìm offset của các thông tin quan tâm chứa trong file nhị phân, thường thì lưu lại file pk.bin gốc, thay đổi cài đặt của PK, so sánh file pk.bin mới và cũ, offset của những bytes bị đổi giá trị là thứ cần tìm. Đầu tiên tìm được offset của những byte chứa thông tin đăng ký, coi như là đã crack được PK.
Tiếp đến là làm cho nó hiện cái icon ra, không khó. Cuối đến cái password, PK không lưu password dưới dạng clear text mà đã mã hóa (ecryption), nhưng do PK sử dụng cơ chế mã hóa yếu (weak encryption, thường là thay đổi giá trị những bytes muốn mã hóa bằng cách cộng thêm hay XOR với một giá trị cố định không làm thay đổi độ dài) nên không khó để dịch ngược ra lại password. Nếu keylogger được cài đặt để up log vào một ftp server chứ ko phải gởi qua mail. Thì thường cả U-sername và Password của ftp cũng lưu trong đó.
Keylogger không thể mã hóa quá kỹ thông tin này (vì cần phải dịch ngược ra để đăng nhập vào ftp server) nên không khó để dịch ngược ra lại (giải thích thêm một tí:không thể là mã hoá 1 chiều, vì những thông tin như username và password để kết nối vào SMTP (nếu cần) và FTP, email nhận, nếu mã hoá 1 chiều, khi cần gởi log, ko thể giải mã để gởi đi. Do đó chỉ có thể là mã hoá 2 chiều để khi cần thì dịch ngược lại để gởi log đi). Do đó bạn có thể ung dung vào trong ftp server của nó để khám phá (nếu là dân it thì đến đây có thể làm được nhìu chuyện lém).
Có được password smtp, lên trang web để tìm cách vô mail của nó. Cách này không phải lúc nào cũng thành công, vì đôi khi password smtp khác password pop. Vô webmail để biết được iform. trong mail của nó. Theo kinh nghiệm đừng quan tâm đến Inbox mà vào Sent, trong đây cho ta biết nhiều thứ về chủ nhân hơn Inbox. Nếu gặp may bạn có thể biết được cả thông tin số điện thoại di động của nó hay người wen của nó, sau đó tùy cơ xử lý.
Một số kiến thức ít ỏi, mong các bạn chỉ giáo thêm
|
|
|
|
|
|
|