|
|
warmoger wrote:
Nguồn tin ở đâu ra vậy Mod?
/hvaonline/posts/list/42745.html#266068
|
|
|
em phát hiện có điểm chung của 2 domain này là:
Firefox can't find the server at www.mybich.com.
Firefox can't establish a connection to the server at hvaforum.net.
vào vnhacker.org nhưng firefox lại trả về hvaforum.net
và điểm chung nữa là:
Email Search: merufa@hcm.vnn.vn
|
|
|
Tôi up lên mediafire cho FourLeafClover down cho dễ nhé.
http://www.mediafire.com/?l2mmzkyk1zw
|
|
|
Symantec giới thiệu “Giải pháp Bảo mật thiết bị đầu cuối” mới
Mới đây, hãng Symantec đã công bố nâng cấp độ bảo mật doanh nghiệp khi cho ra mắt hai sản phẩm mới của mình Symantec Endpoint Protection 11.0 (Bảo vệ thiết bị đầu cuối) và Symantec Network Access Control 11.0 (Kiểm soát truy cập mạng). Endpoint Protection tích hợp phần mềm AntiVirus của Symantec với tính năng ngăn ngừa đe dọa cao cấp trong một tác nhân duy nhất với một giao diện quản trị điều khiển đơn nhất, mang tới khả năng phòng vệ tuyệt vời trước những phần mềm độc hại hay nguy cơ mất mát dữ liệu cho các thiết bị máy xách tay, máy để bàn và máy chủ.
Symantec cũng công bố kết quả của cuộc nghiên cứu do một cơ quan độc lập tiến hành về việc các khách hàng dùng bản thử nghiệm Endpoint Protection nhận xét/đánh giá về hiệu quả hoạt động của giải pháp tích hợp bảo mật đầu cuối một trình agent duy nhất này. Được khảo sát bởi Alchemy Group trong tháng 8 và tháng 9, bản nghiên cứu đánh giá cao khả năng của Symantec Endpoint Protection làm giảm đáng kể chi phí và độ phức tạp khi bảo vệ các thiết bị đầu cuối trong nhiều môi trường mạng của các doanh nghiệp.
Tính năng kiểm soát ứng dụng của Symantec Endpoint Protection (tính năng này có thể hạn chế truy cập tới những ứng dụng được phép từ thiết bị đầu cuối) có thể là yếu tố giúp giảm thiểu chi phí và nâng cao hiệu suất hoạt động. Các trường hợp ngưng trệ mạng do các ứng dụng ngang hàng (P2P) không được cho phép thường gây thiệt hại cho một khách hàng khoảng hơn 2 triệu USD mỗi năm.
Don Ng, Giám đốc bộ phận Bảo mật doanh nghiệp của Symantec khu vực Châu Á - Thái Bình Dương cho biết: "Symantec một lần nữa khẳng định vai trò trong thị trường bảo mật doanh nghiệp nhằm đáp ứng các nhu cầu kinh doanh đang ngày càng tăng và giải quyết các hình thái đe dọa biến đổi hàng ngày. Symantec đã tích hợp những công nghệ bảo mật tốt nhất, bao gồm công nghệ độc đáo phòng chống xâm nhập dựa theo hành vi với sản phẩm Network Access Control được nhiều giải thưởng của chúng tôi trong một sản phẩm đơn nhất giúp đơn giản hóa việc quản lý nhưng mang lại khả năng bảo mật mạnh mẽ hơn. Với việc kết hợp khả năng bảo vệ thiết bị đầu cuối với tuân thủ quy định của thiết bị đầu cuối, giải pháp tổng thể này có thể giúp khách hàng bảo vệ các tài sản trọng yếu, tuân thủ các quy định và bảo mật thông tin".
Khi chạy trong chế độ chờ, Symantec Endpoint Protection giảm thiểu sử dụng bộ nhớ xuống chỉ 24MB. Đây là một mức giảm khá lớn so với những sản phẩm bảo mật đầu cuối cạnh tranh trên thị trường.
Symantec Endpoint Protection còn là sản phẩm duy nhất cung cấp lợi ích thiết thực của các công nghệ bảo mật cần thiết (antivirus, antispyware, tường lửa, phòng chống xâm nhập, kiểm soát thiết bị và kiểm soát ứng dụng) trong một trình agent tích hợp đơn nhất và được quản lý bởi một bảng điều khiển duy nhất. Symantec Endpoint Protection với đặc điểm một bảng điều khiển đơn giản mới, có thể kích hoạt tính năng Kiểm soát Truy cập mạng (NAC), và hàng loạt các dịch vụ đào tạo và hỗ trợ kèm theo, sẽ giúp đẩy nhanh việc triển khai cho các đối tác và khách hàng.
Symantec Endpoint Protection và Symantec Network Access Control phục vụ cho đa dạng các khách hàng - từ doanh nghiệp nhỏ không có phòng ban CNTT tới các doanh nghiệp toàn cầu với hàng ngàn thiết bị đầu cuối cần được quản lý. Do môi trường mạng của mỗi khách hàng là khác nhau, nên Symantec đã phát triển một loạt các công cụ và các dịch vụ thuê ngoài mới nhằm hướng dẫn cho khách hàng dễ dàng hơn trong việc chuyển sang dùng giải pháp mới, triển khai, vận hành và quản lý sản phẩm mới để bảo mật các thiết bị đầu cuối.
Symantec cũng sẽ cung cấp cho khách hàng cách tiếp cận tới những tính năng bổ sung về kiểm soát và phục hồi thiết bị đầu cuối để thúc đẩy và tăng cường ích lợi của giải pháp Symantec Endpoint Protection 11.0. Integration Component trong Symantec Endpoint Protection là một công cụ miễn phí để tích hợp sản phẩm Symantec Endpoint Protection với sản phẩm quản lý Altiris nhằm giúp khách hàng của Symantec dễ dàng triển khai, chuyển đổi từ những phần mềm và cấu hình đầu cuối bảo mật trước đây. Các công nghệ quản lý và bảo mật đầu cuối được tích hợp của Symantec cung cấp cho các hệ thống được Symantec bảo vệ khả năng khôi phục khép kín, giúp tăng cường bảo mật dữ liệu và tính sẵn sàng cho khách hàng, đồng thời giảm chi phí chủ sở hữu về CNTT.
Theo thông tin từ Symantec, bản Symantec Endpoint Protection 11.0 và Symantec Network Access Control 11.0 hiện đã có mặt trên thị trường và có thể mua trực tiếp hoặc thông qua mạng lưới bán lẻ, các nhà phân phối và các hãng tích hợp hệ thống được uỷ quyền trên toàn cầu của Symantec. Các khách hàng hiện thời của Symantec đang sử dụng các bản AntiVirus Corporate Edition, Symantec Client Security, Symantec Sygate Enterprise Protection và Confidence Online for Corporate PCs (Bảo mật toàn bộ) và hiện có hợp đồng bảo trì sẽ được nâng cấp miễn phí lên bản Symantec Endpoint Protection 11.1. Bên cạnh đó, các khách hàng hiện có dùng Symantec Network Access Control với hợp đồng bảo trì đang có hiệu lực sẽ được nâng cấp miễn phí lên bản Symantec Network Access Control 11.0.
Được biết, tính năng Symantec Endpoint Protection Integration Component sẽ ra mắt sau khi có bản Symantec Endpoint Protection 11.0 một thời gian ngắn và không thu phí đối với những khách hàng của Symantec.
Theo VTV
Tương thích windows 2000 SP3/XP/Server 2003/Windows Vista 32-bit và windows XP Profressional SP1/Server 2003/Vista 64-bit.
Yêu cầu cấu hình máy: CPU GHz, RAM 256MB.
Link download: http://rapidshare.com/files/64614648/Symantec_Endpoint_Protection_11.rar
|
|
|
xin giới thiệu phần mềm rapget hỗ trợ dơnload tại cái trang như mega, rapid... phần mềm nhỏ gọn mà hiệu quả.
Với RapGet, bạn hoàn toàn yên tâm về tính năng tải file của chương trình tại các free host chia sẻ. Bạn sẽ không mất thời gian click chuột cùng thời gian chờ đợi theo quy định của Web Host mà vẫn có thể tải file nhanh chóng và an toàn với tốc độ tối ưu. Chương trình sẽ là công cụ đắc lực cho bạn trong việc tải các file chia sẻ thật nhanh chóng như khi tải từ các Host Free.
Trước khi sử dụng chương trình, bạn cần cài đặt OpenSSL vào máy tính. Đây là chương trình miễn phí, bạn có thể tải về cài tại http://www.proxomitron.info/files/download/Win32OpenSSL-v0.9.6m.exe với dung lượng 2.02MB.
RapGet chạy không cần cài đặt. Sau khi tải và chạy chương trình lần đầu tiên, bạn nên thiết lập một vài phần để bạn có thể thao tác trên RapGet trước khi tiến hành tải file chia sẻ.
Phần General cho bạn thiết lập thư mục lưu file (Download to Folder), hiệu ứng âm thanh khi tải file với phần Sound, dánh dấu chọn Watch clipboard để chương trình tự động lấy link trong clipboard, thiết lập khởi động chương trình thông qua Start như tự động chạy cùng windows, thiết lập chế độ chạy nền…
Phần connection cho bạn thiết lập các tác vụ kết nối như số kết nối cùng lúc đến các server (Simultanious download), băng thông (bandwidth: mặc định bằng 0 là không giới hạn), khai báo Proxy nếu bạn đang dùng qua Proxy thông qua chức năng Proxy và Web Control nếu bạn có tài khoản người dùng tại web bất kỳ thông qua port mặc định 8383.
Phần Servers là danh mục các server được hỗ trợ bởi chương trình RapGet. Bạn có thể chọn số file tải đồng thời lên số tối ưu (khoảng 20) để tải cùng lúc nhiều file để mất ít thời gian chờ đợi khi tải. Ngoài ra, nếu có tài khoản Premium, bạn có thể sử dụng trong mục Use > Premium Account.
Phần Scheduler: Đây là tính năng hay của Rapget, cho bạn tải file tại thời điểm mạng tối ưu nhất thông qua việc lên lịch tải. Điều này sẽ vừa giúp bạn tiết kiệm thời gian chờ tải và tốc độ khá nhanh. Bạn có thể thiết lập vào giờ rỗi để chương trình làm việc hiệu quả.
Mục Event là tác vụ cần thực hiện sau khi thiết lập lịch. Mục condition là thời gian chỉ định và Action là thiết lập thao tác tải file.
Phần Misc cho bạn chọn tích hợp RapGet vào trình duyệt Opera hay IE thông qua mục chọn Intergrated, thu nhỏ chương trình vào khay hệ thống khi tải file hoàn tất (minimize at exit).
Danh mục các Web Host chia sẻ thông dụng nhất được RapGet hỗ trợ: rapidshare.com, rapidshare.de, megaupload.com, mytempdir.com, sendspace.com, turboupload.com, speedshare.org, hyperupload.com, depositfiles.com, file2share.biz, rapidupload.com, yourfile.org, yourfilehost.com, simpleupload.de, 2shared.com, yourfilelink.com, savefile.com, freefileupload.net, 4shared.com, uploading.com, oxyshare.com, zshare.net, filefactory.com, badongo.net, upload2.net, up-file.com, rapidshare.fr,uploadyourfiles.de, megashares.com, box.net, speedyshare.com, ultrashare.de, rapidsafe.de, rapidshare.ru.
Link download: http://rapidshare.com/files/82367236/rapget140.rar
|
|
|
đây là link down bản 3.0 beta. bạn down thử về sử dụng xem sao.
http://www.echip.com.vn/echiproot/Softwares/2004/cdimagegui.zip
còn đây là link hướng dẫn sử dụng phần mềm.
http://www.echip.com.vn/echiproot/html/2004/so91/ghi4gbdulieu.html
|
|
|
Đâu cần account đâu nhì, đấy là thư mục mình share trên Box.net, nên ai cũng có thể dơn được mà, bạn cứ nhấp vào link trên sẽ thấy 3 file và cứ thế download thôi.
chúc bạn download thành công.mình thấy mọi người vẫn dơn được mà.
|
|
|
Link down đây bạn, do cái Web Wiz ngăn IP của VN nên phải sử dụng proxy mới down được bạn à, mình down xong và upload qua BOX rồi, bạn vào đây down nhé.
http://www.box.net/shared/rhc7xi5qzm
|
|
|
Lan Phương coi lại giúp tý, hình như những file đầu tiên link die hết rồi.
vào mega link đầu tiên http://www.megaupload.com/?d=0HW97HXQ đã thấy thông báo.
Code:
Unfortunately, the link you have clicked is not available.
|
|
|
http://www.vietsupport.com/vbb/ebooksvietdown/1.rar
khi down nó thành.
http://www.vietsupport.com/vbb/ebooksvietdown/1.rar
The requested URL /vbb/ebooksvietdown/1.rar was not found on this server.
Bác GA coi lại giúp cái.
nhưng thank bác trước nha.
|
|
|
Vài nét về Proxy
Proxy cung cấp cho người sử dụng truy xuất internet với những host đơn. Những proxy server phục vụ những nghi thức đặt biệt hoặc một tập những nghi thức thực thi trên dual_homed host hoặc basion host. Những chương trình client của người sử dung sẽ qua trung gian proxy server thay thế cho server thật sự mà người sử dụng cần giao tiếp.
Proxy server xác định những yêu cầu từ client và quyết định đáp ứng hay không đáp ứng, nếu yêu cầu được đáp ứng, proxy server sẽ kết nối với server thật thay cho client và tiếp tục chuyển tiếp đến những yêu cầu từ clientđến server, cũng như đáp ứng những yêu cầu của server đến client. Vì vậy proxy server giống cầu nối trung gian giữa server và client
Tại Sao Ta Phải Cần Proxy
Để đáp ứng những nhu cầu của người sử dụng khi cần truy xuất đến những ứng dụng cung cấp bởi internet nhưng vẫn đảm bảo được an toàn cho hệ thống cục bộ. Trong hầu hết những phương pháp được đưa ra để giải quyết điều này là cung cấp một host đơn để truy xuất đến internet cho tất cả những người sử dụng. Tuy nhiên, phương pháp này không phải là phương pháp giải quyết thỏa mản nhất bởi vì nó tạo cho người sử dung cảm thấy không thoải mái. Khi truy xuất đến internet thì họ không thể thực hiện những công việc đó một cách trực tiếp, phải login vào hual_homed host, thực hiện tất cả những công việc ở đây, và sau đó bằng cách nào đó chuyển đổi kết quả đạt được của công việc trở lại workstation sử hửu
Điều này trở nên rấ tồi tệ ở những hệ thống với nhiền hệ điều hành khác nhau, vd: nếu hệ thống là bastion_host nhưng riêng dual_host là unix.
Khi dual_home host được thiết kế trên mô hình không có proxy, điều đó sẽ khiến cho người sử dụng thêm bực bồiva đáng chú ý hơn là giảm đi những tiện ích mà intenet cung cấp, tồi tệ hơn là chúng thường không cung cấp một cách không an toàn và đầy đủ,khi một máy gồm nhiều người sử dụng tất nhiên độ an toàn của nó sẽ giảm, đặt biệt khi cố gắn bắt với vạn vật bên ngoài.
Proxy server gíup người sử dụng thoải mái hơn và an toàn cho dual homed host, thay thế yêu cầu của người sử dụng bằng cách gián tiến thông qua dual homed host. Hệ thống proxy cho phép tất cả những tương tác nằng dưới một hình thức nào đó. User có cảm giác làm việc trực tiếp với server trên internetmà họ thật sự muốn truy xuất
Proxy applycation chính là chương trình trên applycation level getaway firewall hành động trên hình thức chuyển đổi những yêu cầu người sử dụng thông qua firewall, tiến trình này được thực hiện trình tự như sau:
* Thành lập một kết nối applycation trên firewall.
* Proxy applycation thu nhận thông tin về việc kết nối và yêu cùa của user
* Sử dụng thông tin để xác nhận yêu cuầ đó được xác nhận không, nếu chấp nhận proxy sẽ tạo sự kết nối khác từ firewall đến máy đích
* Sau đó thực hiện sự giao tiếp trung gian, truyền dữ liệu qua lại giữa client và server proxy system giải quyết được những rủi ro trên hệ thống bởi tránh user login vào hệ thống và ép buộc thông qua phần mềm điều khiển.
Sự cần thiết của Proxy
Proxy cho user truy xuất dịch vụ trên internet theo nghĩa trực tiếp. Với dual host homed cần phải login vào host trước khi sử dụng dịch vụ nào trên internet. Điều này thường không tiện lợi, và một số người trể nên thất vọng khi họ có cảm giác thông qua firewall, với proxy nó giải quyết được vấn đề này. Tất nhiên nó còn có những giao thức mới nhưng nói chung nó cũng khá tiện lợi cho user. Bởi vì proxy cho phép user truy xuất những dịch vụ trên internet từ hệ thống cá nhân của họ, vì vậy nó không cho phép packet đi trực tiếp giữa hệ thống sử dụng và internet. đường đi là giáng tiếp thông qua dual homed host hoặc thông qua sự kết hợp giữa bastion host và screening rounter.
Thực tế proxy hiểu được những nghi thức dưới, nên logging được thực hiện theo hướng hiệu quả đặc biệt, vd: thay vì logging tất cả thông tin thông qua đường truyền, một proxy FPT server chỉ log những lệnh phát ra và server đáp ứng mà nhận được. Kết quả này đơn giản và hửu dụng hơn rất nhiều.
Những khuyết điểm của Proxy
Mặc dù phần mềm prory có hiệu quả rộng rải những dịch vụ lâu đời và đơn giàn như FPT và Telnet, những phần mềm mới và ít được sử dụng rộng raãi thì hiếm khi thấy. Thường đó chính là sự chậm trễ giữa thời gian xuất xuất hiện một dịch vụ mới và proxy cho dịch vụ đó, khoảng thời gian phụ thuộc vào phương pháp thiết kế proxy cho dịch vụ đó, điều này cho thấy khá khó khăn khi đưa dịch vụ mới vào hệ thống khi chưa có proxy cho nó thì nên đặt bên ngoài fire wall, bởi vì nếu đặt bên trong hệ thống thì đó chính là yếu điểm.
Đôi khi cần một proxy khác nhau cho mỗi nghi thức, bởi vì proxy server phải hiểu nghi thức đó để xác định những gì được phép và không được phép. Để thực hiện nhiệm vụ như là client đến server thật và server thật đến proxy client, sự kết hợp , install và config tất cả những server khác nhau đó có thể rất khó khăn
Những dịch vụ proxy thường sửa đổi chương trình client, procedure hoặc cả hai. Ngoại trừ một số dịch vụ được thiết kế cho proxying , proxy server yêu cầu sửa đổi với client hăọc procedure, mỗi sự sửa đổi có những bất tiện riêng của nó, không thể luôn luôn sử dụng công cụ có sẵn với những cấu trúc hiện tại của nó
Proxying dựa vào khà năng chèn vào proxy server giữa server thật và client mà yêu cầu tác động tương đối thẳn thắn cả hai.
Những dịch vụ proxy không bảo vệ cho hệ thống ứng với những nghi thức kém chất lượng. Như một giải pháp an toàn, proxying dựa vào những khả năng xác định những tác vụ trong nghi thức an toàn. Không phải tất cả các dịch vụ đều cung cấp theo khuynh hướng an toàn này, như nghi thức Xwindows cung cấp khá nhiều những tác vụ không an toàn.
Proxying đã thực hiện như thế nào?
Những chi tiếc trong việc proxying thực hiện như thế nào khác nhau từ dịch vụ này đến dịch vụ khác, khi setup proxying, có một vài dịch vụ thưc hiện dể dàng hoặc tự động, nhưng vài dịch vụ có sự chuyển đổi rất khó khăn. Tuy nhiện, trong hầu hết những dịch vụ ngoài yêu cầu những phần mềm proxy server tương ứng, trên client cũng cần phải có những yêu cầu như sau:
Custum client software: phần mềm loại này phải biết như thế nào để liên kết với proxy server thay server thật khi user yêu cầu và yêu cầu proxy server những gì server thật kết nối đến. Những phần mềm custom client thường chỉ có hiệu quả chỉ một vài platform
Vd: packet getaway từ Sun là một proxy packet cho FTP và Telnet, nhưng nó chỉ được sử dụng trên hệ thống SUN bởi vì nó cung cấp recompiled Sun binaries
Mặc dù nếu phần mềm hiệu quả cho platform tương ứ ng, nó cũng có thể không phải điều mà user mong muốn, vd: macintosch có hàng chục chương trình PTF client, một trong vài số đó có những giao diện khá ấn tượng với user, những phần khác có những đặc điểm hửu dụng khác. Anarchie là chương trình mà nó kết hợp một archie client và FPT client bên trong chương trình đơn, vì vậy user có thể tìm file với archie và dùng FPT để lất nó, tất cả với giao diện người sử dụng thích hợp, điều này sẽ không may mắn cho chúng ta nếu muốn hổ trợ proxy server.
Sử dụng những chuyển đổi client cho proxying không dễ dàng thuyết phục user. Trong hầu hết những hệ thống sử dụng client không chuyển đổi những kết nối bên trong và một số chuyển đổi chỉ với những kết nối bên ngoài.
Custom user procedure: user dùng phần mềm client chuẩn để giao tiếp với proxy server và nó kết nối với server thật, thay thế trực tiếp server thật.
Proxy server được thiết kế thực thi với phần mềm client chuẩn. Tuy nhiên, chúng yêu cuầ user theo những custom procedure. User trước tiên kết nối với proxy server và sau đó cung cấp proxy server tên host mà nó muốn kết nối đến. Bởi vì một vài nghi thức được thiết để chuyển những thông tinnày, user không phải nhớ tên proxy server nhưng củng phải nhớ tên host mà nó muốn giao tiếp.
Như thế nào để thực hiện công việc này, cần phải nắm được những thủ tục đặc trưng theo sau mỗi nghi thức.
Vd: với FTP, có thể user muốnn nhận một file từ anonymous FTP server, user cần thực hiện những bước sau:
* Sử dụng bất kỳ FTP client , user kết nối đến proxy server thay thế trực tiếp đến anonumous FTP server.
* Tại dấu nhắc user name, trong việc thêm vào tên chỉ định muốn sử dụng, user phải chỉ định tên server thật muốn kết nối
Các dạng Proxy System
Dạng kết nối trực tiếp
Phương pháp đầu tiên được sử dụngtrong kỹ thuật proxy là cho user kết nối trực tiếp đến firewall proxy, sau đó proxy hỏi user cgo địa chỉ host hướng đến, đó là một phương pháp brute force sử dụng bởi firewall một cách dể dàng, và đó cũng là nguyên nhân tại sao nó là phương pháp ít thích hợp.
Trước tiên, yêu cầu user phải biết địa chỉ của firewall, kế tiếp nó yêu cầu user nhập vào hai địa chỉ hai địa chỉ cho mỗi kết nối: địa chỉ của filewall và địa chỉ đích hướng đến. Cuối cùng nó ngăn cản những ứng dụng hoặc những nguyên bản trên máy tính của user điều đó tạo sự kết nối cho user, bởi vì chúng không biết như thế nào điều khiển những yêu cầu đặc biệt cho sự truyền thông với proxy
Dạnh thay đổi Client
Phương pháp kế tiếp sử dụng proxy setup phải thêm vào những ứng dụng tại máy tính của user. User thưc thi những ứng dụng đặc biệt đó với việc tạo ra sự kết nối thông qua firewall. User với ứng dụng đó hành động chỉ như những ứng dụng không sửa đổi. User cho địa chỉ của host hướng tới. Những ứng dụng thêm vào biết địa chỉ firewall từ file config cuc bộ, setup sự kết nối đến ứng dụng proxy trên firewall, và truyền cho nó địa chỉ cung cấp bởi người sử dụng. Phương pháp này rất khó hiệu quả và có khả năng che dấu người sử dụng, tuy nhiên, cần có một ứng dụng client thêm vào cho mỗi dịch vụ mạng là một đặt tính trở ngại.
Proxy vô hình
Một phương pháp phát triển gần đây cho phép truy xuất đến proxy, trong vài hệ thống firewall được biết như proxy vô hình. Trong mô hình này, không cần có những ứng dụng thêm vào với user và không kết nối trực tiếp đến firewall hoặc biết rằng firewall có tồn tại. Sử dụng sự điều khiển đường đi cơ bản, tất cả sự kết nối đến mạng bên ngoài được chỉ đường thông qua firewall. Như những packet nhập vào firewall, tự động chúng được đổi hướng đến proxy đang chờ. Theo hướng này,firewall thực hiện rất tốt việc giả như host đích. Khi kết nối tạo ra firewall proxy , client applycation nghỉ rằng nó được kết nối đến server thật, nếu được phép, proxy applycation sau đó thực hiện hàm proxy chuẩn trong việc tạo kết nối thứ hai đến server thật
Proxy lớp ứng dụng thì đối nghị với proxy lớp circuuit: application_level proxy được thực thi ở lớp ứng dụng. Nó cung cấp cho từng dịch vụ riêng và interpret những dòng lệnh trong nghi thức đó. Một circuit_level proxy tạo nên một circuit giữa server và client không cần phải interpret những nghi thức này. Nói chung, application_level proxy sử dung modified client. Để tạo ra kết nối proxy, phải biết vị trí nào muốn kết nối đến. Một hybrid gateway đơn giản có thể chặn đứng kết nối, nhưng một proxy host chỉ có thể nhận kết nồima đề nghị với nó, và phải chỉ ra vị trí muốn kết nối. Một application_level proxy có thể nhận thông tin trong từng nghi thức riêng. Một circuit_level proxy không thể interpret theo từng nghi thức và cần phải có thông tin hổ trợ cho nó thông qua một cách nào khác. ưu điểm của circuit_level proxy server là ở đó nó cung cấp cho hầu hết các nghi thức khác nhau , hầu như circuit_level proxy cũng là proxy server chung cho tất cả các dạng nghi thức, tuy nhiên không phải tất cả các nghi thức đều dễ dàng được điều khiển bởi circuit_level proxy , khuyết điểm của circuit_level proxy là nó điều khiển những gì xảy ra thông qua proxy này như là packet filter, nó điều khiển những kết nối cơ bản dựa vào địa chỉ nguồn và địa chỉ đích và không thể xác định những lệnh đi qua nó là an toàn hoặc những sự kiện mà nghi thức đó mong muốn, circuit_level proxy dể dàng bị đánh lừa bởi những server setup lại những cổng gán đến những server khác.
Proxy chung thì đối nghịch với những proxy chuyên biệt: mặc dù “application_level” và “circuit_level” thường được dùng, nhưng đôi khi cũng phân biệt giữa “dedicated” và “generic” proxy server là server chỉ phục vụ một nghi thức đơn , generic proxy server là server phục vụ cho nhiền nghi thức. Thật ra, dedicated proxy server là application_level, và generic proxy server là circuit_level.
Intelligent proxy server: một proxy server có thể làm nhiều điều chứ không phải chỉ chuyễn tiếp những yêu cầu, đó chính là một intelligent proxy server, vd: cern http proxy server caches data, vì vậy nhiều yêu cầu data không ra khỏi hệ thống khi chưa có sự xử lý ccủa proxy server. Proxy server (đặt biệt là application level server) có thể cung cấp login dễ dàng và điều khiển truy xuất tốt hơn, còn circuit proxy thường bị giới hạn bởi những khả năng này
Using proxying với những dịch vụ internet:vì proxy server chèn vào giữa sự kết nối client và server, nó phải được thích ứng với từng dịch vụ riêng, đội khi một số dịch vụ rất dễ với cách phục vụ bình thường nhưng lại rất khó khi thêm vào proxy.
HVA News - www.htmlnews.net
|
|
|
http://www.thanhnien.com.vn/CNTT/2007/1/24/179179.tno
Trong thời gian vừa qua, Trung tâm xử lý sự cố máy tính SOSPC tại Huế đã liên tiếp nhận được lời than phiền của người sử dụng máy tính đã lây bị nhiễm virus có tên là NgheAn và kèm theo một số miêu tả. Chúng tôi tiến hành phân tích về nguồn gốc của nó để giúp người sử dụng máy tính có thể hiểu rõ hơn
Triệu chứng :
- Không thể truy xuất ổ đĩa bằng cách thông thường mà chỉ có thể truy xuất bằng cách kích chuột phải lên ổ đĩa muốn mở và chọn Open. Nếu bạn truy xuất ổ đĩa bằng cách thông thường thì bạn sẽ thấy tiêu đề (title) nằm trên cùng xuất hiện một dòng chữ khá lạ với nội dung “ ^_^ Hello, I’m a hot boy but i am very cool ^_^ “ . Đồng thời trong ổ đĩa sẽ xuất hiện với các file Hay.exe , autorun.inf , more.exe , fuc.fuc (file này có thể có hoặc không có) với thuộc tính ẩn mà người dùng không thể nhìn thấy bằng mắt thường.
- Màu sắc của các folder đã chuyển thành màu xanh được kích hoạt bởi file “desktop.ini”.
Theo đánh giá của SOSPC, đây chỉ là 1 Worm không có khả năng đánh cắp thông tin của người sử dụng máy tính . Đây là 1 viruts nội đã lan theo phương thức mặc định các DISK có trong máy tính: "Label2 (Disk C) , Label3 (Disk D) , Label5 (USB Disk)" .Nếu máy tính người dùng có nhiều hơn số ổ đĩa thì vẫn có thể click bình thường không xảy ra trường hợp như trên nhưng vẫn lây nhiễm viruts với thuộc tính Hiden System (H/S).
Phương thức của nó được hacker lập trình phát tán qua USB sau đó tự động kích hoạt. Sau đây là 1 số hình ảnh được SOSPC phân tích thông qua Crack file "Hay.EXE"
http://www.madeinviet.com/Virus/nghean.gif
http://www.madeinviet.com/Virus/ma_mau.gif
http://www.madeinviet.com/Virus/giaimaxau.gif
http://www.madeinviet.com/Virus/autorun_inf.gif
http://www.madeinviet.com/Virus/more.gif
Khi máy tính đã lây nhiễm thì bạn làm theo những cách sau đây:
Luôn luôn kích chuột phải trên ổ đĩa bạn muốn mở và chọn Open (Không nên chọn Auto vì khi chọn Auto thì bạn đã góp phần làm cho virus lây nhiễm).
1. Khi cắm USB vào bạn đè phím Shift bên trái cho đến khi Windows báo là nhận xong phần cứng là thiết bị USB bạn cắm vào.
2. Bạn mở Task Manager (nhấn Ctrl + Alt + Del cùng 1 lần) rồi chọn Tab Processes. Bạn tìm đến chương trình virus đang chạy cùng với hệ thống với tên là “more.exe” bạn chỉ chuột đến đó rồi nhấn phím Del để xóa chương trình đó.
3. Tiếp theo bạn mở My Computer lên rồi chọn Tool ---> Folder Options rồi chọn nhu hình dưới đây:
Tiếp theo bạn cần xóa nhưng file có trong tất cả các ổ đĩa (kể cả USB): more.exe, autorun.inf, hay.exe, desktop.ini
Cuối cùng bạn vào Registry của Windows bằng cách mở Start----> Run. Bạn gõ vào lệnh “regedit”. Khi hộp thoại Registry hiện ra bạn chọn Edit ----> Find để xuất hiện công cụ tìm kiếm. Bạn gõ vào “more.exe”. Bạn phải xóa tất cả các khóa (Key) tìm kiếm được.
Sau khi đã xóa xong với từ khóa “more.exe” bạn tiếp tục chọn Edit ---> Find và gõ vào từ khóa “hay.exe” và cũng xóa tất cả các khóa (Key) như trên. Xong rồi bạn đóng tất cả lại và khởi động lại máy. [url]
|
|
|
Vào Start -> Run -> Regedit
Vào HKEY LOCAL MACHINE\Software\Microsoft\WindowsNT\Cu rrentVersion\WPAEvents .. sau đó tìm DWord tên là OOBETimer, xóa tất cả các giá trị trong chuỗi này đi.
Sau đó vào Start -> Run, và gõ "%systemroot%\system32\oobe\msoobe.exe /a"
Windows sẽ hiện ra hộp thoại để nhập key vào, bạn nhập key vào gồm 20 ký tự: xxxxx-xxxxx-xxxxx-xxxxx-xxxxx và Update -> Remind me later.
(Key này chắc bạn phải đi mua của hãng microsoft thôi, VN vào WTO không nên xài đồ chùa nữa)
Restart computer, vào Run gõ : "%systemroot%\system32\oobe\msoobe.exe /a" ...
Nếu nó thông báo: windows is activeted là ok
|
|
|
|
|
|
|