hm, vì một số lý do cá nhân nên phần tiếp theo của bài này không được hoàn tất như dự kiến. khoai xin lỗi bà con. Hiện tại, khoai đã hoàn thành hết các partition chính trong /. Phần tiếp theo sẽ tiến hành partition, install và chỉnh lại boot loader. khoai sẽ cố gắng viết xong trong thời gian ngắn nhất
)
----------------------------------------
g. Thư mục
/bin:
Đây là thư mục chứa các chương trình cơ bản nhất trong hệ thống. Các file binary
[6] này thường là các chương trình thiết yếu và đủ để hệ thống có thể khởi động và làm việc ở mức căn bản.
Thông thường, không ai tạo riêng một partition cho /bin. Lý do đầu tiên là kích thước của /bin rất nhỏ, và lại rất cố định. Nhưng lý do quan trọng hơn là bởi vì chức năng của /bin. Khi kernel
[7] được load bởi bootloader, việc đầu tiên là kernel sẽ tiến hành mount partition /. Sau đó, các partition khác sẽ được mount sau bởi các init script
[8]. Các init script cần có 2 lệnh mount và umount,
nằm trong /bin, để có thể tiến hành mount các partition khác. Ngoài ra, trong /bin còn có các chương trình cần thiết khác để khởi động như shell, login, cp vân vân. Do đó, /bin cần được đặt trong partition dành cho /.
h. Thư mục
/dev:
/dev là nơi kernel đặt các device file. Trong linux và các hệ điều hành Unix-like, mỗi device đều được gán cho một file và các file này sẽ được đặt trong /dev. Khi một tiến trình nào đó muốn truy xuất một device, tiến trình đó sẽ sử dụng các file device này. Ngoài các file device dành cho các hardware trên hệ thống, ở /dev còn có thêm một số file rất tiện dụng như /dev/zero, /dev/null, /dev/random.
Mỗi ổ cứng đương nhiên cũng được tạo một device file trong /dev. Tuy nhiên, chi tiết về device file dành cho hdd (hard disk drive) sẽ được đề cập kỹ hơn trong phần tiến hành partition ổ cứng.
/dev là một pseudo filesystem. Nghĩa là directory /dev là một file system ảo. Kernel sẽ tự tạo và đặt các device file vào /dev
nếu như kernel nhận ra device đó. Bất kỳ một device nào cũng cần có driver để tương tác với kernel. Driver cho linux thường đã được nằm sẵn trong kernel. Bạn nào có config và rebuild kernel sẽ nhận ra có rất nhiều driver được support. Các driver được kernel support có thể được build trực tiếp vào kernel, hoặc được compile thành module. Ngoài ra, driver còn có thể được cung cấp dưới dạng kernel loadable module từ nhà sản xuất, hoặc từ các nhóm phát triển khác.
i. Thư mục
/lib:
/lib thường là nơi chứa các library cần thiết cho hệ thống hoạt động. Một số thư mục khác cũng dùng để đặt lib gồm có: /usr/lib, /usr/local/lib.
Một thư mục đáng quan tâm khác trong /lib là /lib/modules. /lib/modules chứa các modules của kernel đang dùng. Nếu trên máy tính có nhiều hơn 1 kernel, trong /lib/modules sẽ có các directory khác tương ứng cho từng version của kernel.
/lib
cần được đặt trong partitions /. kernel đôi khi cần phải load các modules, hoặc sử dụng một số share library trong /lib trước khi mount các partition non-root. Ngoài ra, các chương trình thực thi khác, nếu không compile static thì vẫn phải sử dụng rất nhiều library trong /lib.
j. Thư mục
/media và
/mnt
Hai thư mục này thường được dùng để đặt các mount point. Như đã bàn ở trên, một partition muốn dùng được phải được mount. Các mount point đó thường được đặt trong /mnt. Một số các chương trình ứng dụng mới không dùng /mnt mà dùng /media là nơi default để đặt các mount point. Do đó, rất nhiều distro cung cấp cả hai thư mục, và sử dụng link để tương thích cho thói quen của user và các application.
k. Thư mục
/opt:
/opt thường được dùng làm nơi cài đặt thêm các chương trình mang tính “optional”, có nghĩa là không thật sự cần thiết cho hệ thống. Cá nhân khoai nhận thấy /opt thường ít được sử dụng.
l. Thư mục
/proc:
/proc cũng là một pseu-do filesystem. Các file/thư mục trong /proc sẽ được kernel khởi tạo trong lúc hoạt động. Trong /proc sẽ có các file/thư mục tương ứng cho các process đang chạy, và ngay cả kernel. Rất nhiều kernel parameters có thể được xem và thay đổi bằng cách edit trực tiếp các file tương ứng trong /proc mà không cần dùng sysctl.
m. Thư mục
/root:
/root là home directory cho account root. Thư mục này cũng tương tự như các home directory khác trên hệ thống. Chỉ khác ở điểm thư mục này không nằm trong /home/username mà được đặt ngay trong /.
[6]-Binary: Trên linux, các file chủ yếu được phân ra hai loại chính: text file, và binary file. Text file là các file chỉ chứa các ký tự ASCII. Còn lại đều được gọi là binary file. Các file binary file này có thể là phim, nhạc, hình ảnh, vân vân. Tuy nhiên, binary file được đề cập trong bài là các file chứa mã thực thi cho hệ thống. Các file binary này đã được compile và được link để có thể chạy được.
[7]-Kernel: kernel là từ dùng để chỉ phần lõi của hệ thống. Bất kỳ một hệ điều hành nào cũng có kernel. Linux nói cho chính xác thì chỉ là kernel mà thôi. Kernel là một chương trình giúp cho các chương trình khác có thể giao tiếp với nhau, và với các phần cứng thông qua driver. Source cho linux kernel được cung cấp tại
http://www.kernel.org.
[8]-init script là từ dùng để chỉ các đoạn shell script được chạy mỗi lần máy tính khởi động. Các init scripts này thường được đặt trong /etc/rc.d, hoặc /etc/init.d tuỳ theo distribution. Các init script này dùng để chạy các chương trình cần thiết khi khởi động, để mount các partitions cần thiết, để chạy các service, hoặc để chỉnh sửa các thông số cho kernel, vân vân. Các init script thường được phân loại dựa theo boot level. Để biết thêm chi tiết về boot level (hoặc init level), xin mời tham khảo thêm man page của inittab và initscript.